Theo Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC ngày 24-12-2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, cá nhân nhà đầu tư nước ngoài lại được quy định “là người có quốc tịch nước ngoài, cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam, bao gồm cả người gốc Việt Nam có quốc tịch nước ngoài”. Một số sở kế hoạch và đầu tư đã coi những quy định này như “phao cứu sinh” để làm cơ sở khi giải quyết thủ tục đầu tư đối với Việt kiều. Tức là Việt kiều sẽ được xem là nhà đầu tư nước ngoài khi không còn quốc tịch Việt Nam hoặc có quốc tịch nước ngoài.

   Theo Điều 7, Luật Quốc tịch quy định rõ: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước...”.

   Quyết định 88/2009/QĐ-TTg ngày 18-6-2009 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó có đưa ra định nghĩa “cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam”

   Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã căn cứ vào khoản 5, điều 3 Luật Đầu tư - một điều khoản gần như không ăn nhập gì để đưa ra hướng dẫn như sau:

a. Trường hợp nhà đầu tư không còn quốc tịch Việt Nam thì áp dụng như đối với nhà đầu tư nước ngoài;

b. Trường hợp nhà đầu tư còn quốc tịch Việt Nam thì cho họ lựa chọn được đối xử như nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài.

Tin tức khác